Sau một thời gian nghiên cứu và triển khai trùng tu, đến nay dự án trùng tu phục hồi hai nhà bia bảo vệ hai tấm bia:“Ngự chế Ngự Hà bi ký” và “Ngự chế Khánh Ninh kiều bi ký”đã hoàn thành. Hoạt động tu bổ này tuy có quy mô không lớn, nhưng thể hiện phần nào được cái tâm cùng sự nỗ lực của những người làm công tác bảo tồn thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đối với các giá trị di sản do tiền nhân để lại.
Theo các tư liệu lịch sử, “Ngự chế Ngự Hà bi ký”và “Ngự chế Khánh Ninh kiều bi ký” là 2 bài văn bia do đích thân vua Minh Mạng viết về sông Ngự Hà và cầu Khánh Ninh. Mỗi văn bia được khắc trên bia đá có nội dung khác nhau, nhưng tất cả đều nói đến nguồn gốc và lợi ích của sông Ngự Hà và cầu Khánh Ninh cũng những cây cầu khác trên con sông này đối với người dân trong việc đi lại trong khu vực Kinh thành.
|
Cầu Khánh Ninh và nhà bia |
Ngự Hà là một con sông đào hình thức thợ, khởi nguồn từ một phần của con sông cũ chảy từ mặt Tây qua Đông của Kinh thành Huế. Cụ thể hơn, Ngự Hà được đào theo một nhánh cũ của sông Hương chảy từ chợ Kim Long đến Bao Vinh để thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa ra vào Kinh thành Huế. Khoảng năm Ất Sửu (1805) dưới triều vua Gia Long, sông được khơi đào từ sông Đông Ba đến Võ khố, đi ngang qua Kinh Thương (kho lúa của triều đình), và được đặt tên là sông Thanh Câu. Vào năm Ất Dậu (1825) dưới triều vua Minh Mạng, sông được đào tiếp nối đến sông Kẻ Vạn và đổi thành Ngự Hà (Sông Vua). Qua hai lần đào, Ngự Hà trở thành dòng sông chảy xuyên qua giữa lòng Kinh thành với chiều dài tổng cộng là 3.700m, rộng từ 44 đến 85m, nối liền sông Kẻ Vạn với sông Đông Ba, được xem là trục cảnh quan, tiêu thoát nước, trục giao thông chủ đạo của khu vực Kinh Thành Huế thời bấy giờ.
Hệ thống cầu cống gắn liền với Ngự Hà (từ Đông qua Tây) gồm: cầu Hàm Tế, cầu Đông Thành Thủy Quan (công Lương Y), cầu Ngự Hà (cầu Kho), cầu Khánh Ninh (cống Hắc Báo), cầu Vĩnh Lợi, cống Tây Thành Thủy Quan và cầu Thủy Quan. Hiện nay, hầu hết các cầu cống này (được xây bằng gạch vồ ở phần dưới và ốp đá Thanh ở thân và lan can cầu) vẫn còn khá nguyên vẹn; ngoại trừ có cầu Bình và cầu Son đã từng tồn tại, nhưng sau này đã bị triệt giải do không còn sử dụng nữa.
|
Nhà bia cầu Khánh Ninh |
Trong những năm gần đây, sau khi UNESCO công nhận Quần thể Di tích Cố đô Huế là Di sản Văn hóa Thế giới; trong đó có hệ thống Ngự Hà, nhiều công trình kiến trúc-lịch sử của triều Nguyễn đã được Chính phủ và chính quyền địa phương đầu tư trùng tu và tái thiết với mong muốn phục nguyên những giá trị đặc sắc của một kinh đô lịch sử; trong đó, Ngự Hà và hệ thống cầu cống cũng được quan tâm tu sửa, chỉnh trang. Trong tương lai, Ngự Hà vẫn sẽ đóng vai trò là hệ thống điều hòa nước tự nhiên, tạo sự cân bằng về sinh thái trong khu vực Kinh Thành, đồng thời tiếp tục được tôn tạo chỉnh trang để trở thành một tuyến du lịch bằng thuyền trên sông và đi bộ dọc theo dòng chảy để giúp du khách khám phá vẻ đẹp của một dòng “ sông Vua” một thời và trải nghiệm các hoạt động hàng ngày của cư dân Thành Nội.
Trong khuôn khổ bài giới thiệu ngắn này, chúng tôi mong muốn gửi đến cộng đồng và du khách những thông tin cơ bản về Ngự Hà cùng nội dung của bài văn bia do đích thân Vua Minh Mạng biên soạn vào ngày mồng một tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17 trên hai tấm bia đá vừa được trùng tu phục hồi hai nhà che bia.
Nguyên văn nội dung hai bài văn bia này được dịch nghĩa như sau:
1. Bài văn bia viết về sông Ngự Hà
Sông này nguyên trước đây là một nhánh của sông Hương.
Sau khi vua cha là Cao Hoàng đế vượt qua mọi trở ngại để lấy lại đất Thần kinh, lúc xây dựng Kinh thành, đã tùy theo địa thế mà đào lấp.
Sông bắt đầu từ phía bắc Hoàng thành, ngang qua Võ Khố, vòng quanh lên phía bắc, qua phía đông, lại chuyển về phía nam, quay lại phía đông ra ngoài Kinh thành lưu thông với Hộ Thành Hà. Từ đường cái ở cửa Đông Nam trong Thành Nội qua sông đến đường cái ở cửa Chánh Bắc, đã từng bắc cầu gỗ để qua lại.
Đến năm Canh Thìn, Minh Mạng năm thứ nhất, Trẫm nghĩ rằng ở Kinh thành tụ họp nhiều nhà cửa, người và ngựa đi trên đường cái ngày đêm, chất gỗ khó tồn tại lâu dài, cho nên đổi làm cầu đá, đó là kế chỉ làm một lần mà được nhàn rỗi lâu dài.
Bèn sai Bộ Công lấy ngày lành tháng 5 năm ấy bắt đầu khởi công. Trải qua một tháng rưỡi thì chiếc cầu được xây xong. Dưới cầu để ba khoảng trống, trên cầu xây đá thanh, hai bên có lan can bằng đá để bảo vệ. Mặc khác, vì sông này trước đó chưa có tên, bèn gọi tên là Ngự Hà, cho nên cũng lấy nó để đặt tên cầu.
Đến tháng tư năm Minh Mạng thứ 11, lại thấy ở chỗ Ngự Hà chảy về phía đông ra ngoài Kinh thành, nguyên có chiếc cầu gỗ tên là cầu Thanh Long, cũng sai thay bằng đá. Dưới cầu đặt chánh cửa làm cửa quan. Trên cầu, ở lan can bảo vệ, trổ ra 13 cửa dùng để bắn súng đại bác. Cầu được đổi thành Đông Thành Thủy Quan.
Cầu giúp ích nhiều cho việc qua lại, thuận lợi cho xe thuyền, lại được phòng bị nghiêm túc, làm cho Kinh đô thêm hùng tráng. Kinh phí tiền bạc trước sau đến vài vạn, vẫn không tiếc. Nay làm bài ký để khắc vào bia đá.
Sáng sớm ngày mồng một tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17.
|
Khánh Ninh Kiều bi ký |
2. Bài văn bia vua viết về cầu Khánh Ninh
Thời Gia Long đào sông Ngự Hà bắt đầu từ Võ Khố đến chỗ ra khỏi phía đông Kinh thành, thông với Hộ Thành Hà. Chỉ ở phần thượng lưu của nó là chưa thông.
Nghĩ kỹ thấy rằng sông này rất tiện lợi cho mọi người trong sự đi lại để làm việc công cũng như việc tư. Nếu ở thượng lưu không thông thì ai muốn đi về phía tây Kinh thành cũng gặp sự bất tiện. Vả lại, dòng nước chẳng nối tiếp với đầu nguồn thì ứ đọng đục bẩn, không thể cung ứng cho việc ăn uống và sử dụng của quân đội và dân chúng.
Cho nên, vào tháng 6 năm Ất Dậu, năm Minh Mạng thứ 6, bèn đào một thủy đạo từ chỗ tắc của con sông, hướng về phía tây, ra khỏi Kinh thành, thông với Hộ Thành Hà. Khi đó, sông đã thông ghe thuyền, nhưng trên các đường cái, người và ngựa đi lại, không thể không xây cầu để qua sông. Bèn xây cầu đá ở đường cái Ngự Hà, dùng cung Khánh Ninh, gần bên trái cầu để đặt tên là cầu Khánh Ninh.
Kế đến, từ đường cái cửa Chánh Nam đến đường cái cửa Tây Bắc, ở chổ qua sông cũng xây một cầu đá, tên là cầu Vĩnh Lợi.
Lại ở chỗ phía tây của thành vượt qua sông, thiết lập một cửa quan, trên thì xe cộ qua lại, dưới thì ghe thuyền vào ra, gọi tên là Tây Thành Thủy Quan. Trên tường đặt súng đại bác, trông càng thêm hùng tráng.
Lại nữa, ở đầu ngoài quách phía tây của thành, cũng xây một cầu đá, gọi là cầu Hoằng Tế.
Các cầu và cửa quan ấy, ở dưới đều xây bằng gạch, ở trên thì xây bằng đá. Việc thi công kéo dài đến nửa năm mới hoàn tất, thật là vững chãi.
Mặc dù kinh phí lên đến cả chục vạn, nhưng nào có tiếc, vì có thể để lại muôn năm, ban ơn cho hàng triệu người, nên cũng không thể không làm.
Nay nhớ đến và ghi lại nguồn gốc của con sông và các cầu để phó thác cho bia đá.
Sáng sớm ngày mồng một tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17.